Lịch sử của cơ sở dữ liệu được xem như bắt đầu vào những năm 60 của thế kỷ trước, khi máy tính bắt đầu được sử dụng tương đối rộng rãi. CSDL có quy mô lớn đầu tiên được công ty IBM thực hiện cho Cục Quản trị Hàng không và Không gian Quốc gia (National Aeronautics and Space Administration hay NASA) của Mỹ để hỗ trợ cho việc quản lý dự án Apollo dùng để thám hiểm mặt trăng. Sau đó hệ cơ sở dữ liệu này được thương mại hóa với tên IMS (Information Management System). Hệ này sử dụng mô hình dữ liệu phân cấp (hierarchical).
Cũng trong thời gian đó, Charles Bachman cũng phát triển Integrated Data Store (IDS) sử dụng mô hình dạng mạng (Network). Mô hình này sau đó được tiêu chuẩn hóa bởi CODASYL (Conference of Data System Language).
Năm 1970, Edgar Codd, một nhà khoa học làm việc cho IBM, đề xuất một số khái niệm về hệ cơ sở dữ liệu quan hệ (relational) đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong lĩnh vực này. Tuy nhiên dường như IBM không mặn mà lắm với những ý tưởng của Codd, mặc dù họ cũng tạo ra một dự án nhỏ, System R, để nghiên cứu các đề xuất của Codd. Tuy vậy họ cũng tạo ra được ngôn ngữ SEQUEL (viết tắt của Structured English Query Language), tiền thân của SQL mà hiện chúng ta thường sử dụng.
Năm 1976, Peter Chen đã hoàn thiện thêm hệ CSDL này bằng mô hình thực thể - liên kết (Entity-Relationship hay E-R).
Năm 1979, Relational Software Inc (RSI), sau đổi tên là Oracle, là công ty đầu tiên sử dụng mô hình quan hệ để thương mại hóa và dần dần chiếm lĩnh thị trường quản lý dữ liệu. Cũng trong thời gian này IBM cũng bắt đầu thương mại hóa SQL. Chẳng bao lâu SQL trở thành tiêu chuẩn để sử dụng với CSDL quan hệ.
Cùng với sự phát triển của máy tính, bên cạnh các tập tin văn bản, dữ liệu được thể hiện dưới dạng những ký tự, ta còn có những loại tập tin khác, các tập tin hình ảnh, các bản vẽ được tạo ta từ những phần mềm CAD, dữ liệu được thể hiện bằng những phương thức khác. Vì thế từ thập niên 1980, HQTCSDL hướng đối tượng (object-oriented DBMS) bắt đầu được nghiên cứu và đến những năm 1990, chúng bắt đầu được đưa ra thị trường.
Cũng bắt đầu từ thập niên 1990, cùng với sự bùng nổ của internet và các dịch vụ trực tuyến, các HQTCSDL phục vụ cho thị trường này phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh các sản phẩm của các đại gia như Oracle Database của Oracle, DB2 Universal Database của IBM, SQL Server của Microsoft, Sybase Adaptive Server của Sybase, cũng xuất hiện các phần mềm miễn phí, mã nguồn mở, nổi bật hơn cả là MySQL, PostgreSQL, SQLite.
Bên cạnh đó, một xu hướng khác cũng xuất hiện từ đầu thế kỷ 21 là các HQTCSDL theo hướng NoSQL (được hiểu là “not only SQL”), như MongoDB, có khả năng làm việc với các dữ liệu có cấu trúc ít bị ràng buộc chặt chẽ hơn, có thể hoạt động trong điều kiện có cấu hình phần cứng hạn chế như trên điện thoại di động.
Trang web này được cập nhật lần cuối ngày 25/11/2018
Thống kê
Các chuyên đề
Xử lý dữ liệu
Ma trận
R