Phương pháp này thường được dùng như một giai đoạn trung gian để xác định vùng chứa giá trị của các yếu tố để đáp ứng đạt giá trị tối ưu – sau đây gọi tắt là vùng tối ưu - trong trường hợp có nhiều hơn 1 yếu tố khảo sát.
Quá trình thực hiện gồm một số bước, mỗi bước chỉ thực hiện một hay một số ít các nghiệm thức. Giá trị của các yếu tố thí nghiệm trong một bước được xác định dựa trên nhận định hay phân tích kết quả của các thí nghiệm trước. Quá trình được tiếp diễn cho đến khi đạt đến kết quả yêu cầu. Vấn đề được đặt ra là làm thế nào để tiến được đến vùng tối ưu một cách nhanh nhất và chính xác nhất.
Để minh họa, ta xem xét thí dụ với thí nghiệm 2 yếu tố sau.
Thí dụ : Xét đáp ứng `Y` phụ thuộc 2 yếu tố `X_1` và `X_2`, có đường đồng mức lý thuyết được biểu diễn trên Hình 1. Giả sử bằng kinh nghiệm, ta chọn được 2 nghiệm thức xuất phát tương ứng với `(x_1=80`, `x_2=180`) và (`x_1=80`, `x_2=190`). Từ hai nghiệm thức này, ta thực hiện quá trình thí nghiệm để tìm vùng tối ưu bằng cách thay đổi dần từng yếu tố như được minh họa trên Hình 1.
Hình 1 Tiến đến vùng tối ưu bằng cách thay đổi dần từng yếu tố
Quá trình tiến đến vùng tổi ưu được mô tả như sau:
Qua thí dụ này, ta thấy phương pháp tiến đến vùng tối ưu bằng cách thay đổi dần từng yếu tố không hiệu quả vì cần dùng nhiều nghiệm thức, đặc biệt khi có nhiều yếu tố. Ngoài ra vùng tối ưu tìm được có thể chưa hoàn toàn chính xác (như trong thí dụ trên).
Trong nhóm các phương pháp leo dốc, phương pháp đường dốc chính thường được dùng hơn cả vì cần ít thí nghiệm và có độ chính xác tương đối cao.
Trong nhiều trường hợp, trên bề mặt đáp ứng có tồn tại một cực trị (lưu ý rằng cực trị không đồng nghĩa với giá trị lớn nhất hoặc nhỏ nhất). Khi đáp ứng `Y` phụ thuộc vào `k` yếu tố `X_1, X_2, ..., X_i , ... , X_k` thì tại cực trị ta có:
| `(del y)/(del x_1)=(del y)/(del x_2)=cdots=(del y)/(del x_i)=cdots=(del y)/(del x_k)=0` | (1) |
Điểm cực trị này còn được gọi là điểm dừng (stationary point).
Xét mặt cong S biểu diễn sự phụ thuộc của đáp ứng `Y` vào hai yếu tố `X_1` và `X_2`, và một điểm M trên mặt này. Trên S còn có các đường đồng mức `y_i`. Về mặt toán học, ta gọi đường dốc chính là đường qua M và vuông góc với tất cả các đường đồng mức (Hình 2).
Hình 2 Bề mặt đáp ứng, đường đồng mức, và đường dốc chính
Tại giao điểm của đường dốc chính và đường đồng mức, pháp tuyến của đường đồng mức chính là tiếp tuyến của đường dốc chính. Tổng quát hơn, tại mỗi điểm của đường dốc chính, véc tơ chỉ phương của đường này chính là grad `y` tại điểm đó (Hình 3).
Hình 3 Đường đồng mức, đường dốc chính, và grad `y`
Cần nhắc lại rằng `"grad"\ y` là một vectơ được định nghĩa như sau:
| `"grad"\ y=(del y)/(del x_1)vec(u_1) + (del y)/(del x_2)vec(u_2) + cdots + (del y)/(del x_k)vec(u_k) = sum_(i=1)^k (del y)/(del x_i)vec(u_i)` | (2) |
trong đó vectơ `vec(u_i)` là vectơ đơn vị của `x_i`.
Phương pháp đường dốc chính (steepest ascent) thường được dùng để tìm vùng tối ưu với số thí nghiệm không nhiều, đồng thời thu được vùng tối ưu hiệu quả hơn. Ta có thể xem xét phương pháp này bằng các sử dụng lại các thông tin của thí dụ trên và dùng phương pháp đường dốc chính. Quá trình được minh họa trên Hình 4.
Hình 4 Tiến đến vùng tối ưu bằng đường dốc chính
Quá trình tiến đến vùng tổi ưu trong phương pháp đường dốc chính được mô tả khái quát như sau:
Qua so sánh với phương pháp thay đổi dần từng yếu tố (Hình 1), phương pháp đường dốc chính cần ít nghiệm thức hơn, vùng tối ưu thu được cũng tốt hơn.
Trang web này được cập nhật lần cuối ngày 28/11/2018
Thiết kế thí nghiệm
Các chuyên đề
Xử lý dữ liệu
Ma trận
R